Hệ thống Biofloc là hệ thống gì?
Công nghệ Biofloc (BFT) được nghiên cứu để duy trì chất lượng nước trong các hệ thống nuôi trồng thuỷ sản và cung cấp dinh dưỡng cho các động vật nuôi. Hệ thống BFT giữ amoniac dưới mức độ độc hại và cải thiện hiệu quả sử dụng chất dinh dưỡng của động vật nuôi.
Ngoài ra, BFT còn cung cấp thêm chất dinh dưỡng và enzyme tiêu hoá ngoại sinh. Ứng dụng BFT cũng có thể hỗ trợ tăng trưởng tốt hơn, tăng tỷ lệ sống và tăng khả năng sinh sản cho động vật nuôi.
Theo một số nghiên cứu được công bố, cụ thể tiềm năng miễn dịch của hệ thống BFT giúp cải thiện hệ thống miễn dịch bẩm sinh của tôm bao gồm cả chống lại các mầm bệnh có hại. Vì vậy, tăng tiềm năng miễn là một đặc tính quan trọng trong hệ thống nuôi tôm bằng biofloc. Ví dụ, tỷ lệ mắc bệnh hoại tử ở gan cấp gan cấp tính (AHPND) thấp hơn ở các trang trại nuôi áp dụng BFT. Đây là bệnh đã dẫn đến thiệt hại lớn khi nuôi tôm.
Ứng dụng Biofloc trong thí nghiệm
Bố trí thí nghiệm trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) bao gồm:
– 20 bể thuỷ tinh kích thước (90x40x35 cm) dung tích 100 lít nước và được sử dụng như một đơn vị thí nghiệm
– Nước được sục khí liên tục, nhiệt độ duy trì mức 27.3 – 28.3 độc C
– Chế độ ánh sáng 12h tối – 12h sáng
– Tôm thẻ chân trắng có trọng lượng ban đầu là 2.03 ± 0.05 gram được thả ngẫu nhiên 30 con trong một bể (trung bình 83 con/ m2)
– Cho ăn 04 lần/ ngày với dạng thức ăn viên với hàm lượng protein thô 30% trong 49 ngày. Tỷ lệ trọng lượng cơ thể mỗi ngày và lượng thức ăn được điều chỉnh theo sinh khối bể.
Thí nghiệm được bố trí với 05 nghiệm thức (lặp lại bốn lần cho mỗi thực nghiệm). Trong đó bao gồm các nghiệm thức đối chứng khi không cần bổ sung thêm carbon hữu khác nhau. Các hữu cơ khác như là mật rỉ, bột sắn, sản phẩm phụ từ khoai mì và cám gạo. Tăng trưởng của tôm, phản ứng miễn dịch và khả năng chống lại virus myonecrosis (IMNV) cũng được xác định.
Kết quả thí nghiệm
Kết quả cho thấy áp dụng công nghệ nuôi tôm biofloc để nuôi tôm thẻ chân trắng ảnh hưởng đáng kể đến phản ứng miễn dịch của tôm. Từ đó có thể làm tăng sức mạnh của tôm để chống lại các mầm bệnh. Những phản ứng này dường như không phụ thuộc vào nguồn carbon được sử dụng để phát triển biofloc.
Các thông số chung về chất lượng nước trong phạm vi bình thường luôn được đảm bảo bởi các loại biofloc. Trong một số thí nghiệm khác cũng chứng minh được mức nitơ hoà tan thấp thường thấy trong các bể biofloc.
Áp dụng nguồn carbohydrate đơn giản trong bể biofloc còn giúp loại bỏ amoniac nhanh hơn. Trong khi các carbohydrate phức tạp đòi hỏi nhiều thời gian hơn để phân huỷ thành các loại đơn giản.
Điều này có thể lý giải lý do TAN thường cao hơn trong giai đoạn thí nghiệm trong việc gây biofloc bằng cám gạo. Cám gạo là nguồn cung cấp chất xơ cao nhất, so với các phương pháp gây biofloc bằng các nguồn carbon khác.
Trong các nghiên cứu đã từng thực hiện, người ta đã chứng minh việc áp dụng BFT nói chung cho kết quả tăng trưởng, FCR và tỷ lệ sống cao hơn của tôm nuôi.
Và đối với các nghiên cứu này, xu hướng tăng trưởng và tỷ lệ sống cao hơn đôi chút với tôm trong hệ thống biofloc. Mặc dù không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát so với tôm từ nghiệm thức đối chứng.
Xem thêm: Đảm Bảo Dinh Dưỡng Cho Tôm Trong Lúc Giao Mùa
Bên cạnh đó các nguồn cacbon hữu cơ khác nhau dường như có ảnh hưởng đến quá trình đồng hoá protein và lipid của tôm.
Tuỳ thuộc vào thành phần của các axit amin thiết yếu, biofloc có thể được coi là một nguồn protein chất lượng tốt. Cải thiện quá trình đồng hoá protein trong hệ thống BFT trong đường ruột tôm do sự đóng góp của cả enzyme tiêu hoá ngoại sinh của vi khuẩn trong biofloc và sản xuất các enzyme tiêu hoá nội sinh được kích thích bởi biofloc.
Sự cải thiện đồng hoá protein và lipid trong nghiệm thức biofloc rõ ràng cho thấy sự đóng góp tích cực của sinh khối biofloc tạo ra từ lượng dinh dưỡng thừa như một nguồn thức ăn cho động vật nuôi. Từ đó dẫn đến khả năng hệ số chuyển đổi thức ăn thấp hơn trong các hệ thống BFT trong nghiên cứu.
Quan hệ đầu vào – đầu ra đại diện cho mức tăng sinh khối tôm sơ với đầu vào hữu cơ liên quan đến mức tăng sinh khối. Theo cách này, việc sử dụng cám gạo làm nguồn carbon hữu cơ là kém hiệu quả nhất so với các nguồn carbon khác trong nghiên cứu.
Đánh giá thí nghiệm nuôi tôm trong hệ thống biofloc
Biofloc rõ ràng ảnh hưởng đến phản ứng miễn dịch bẩm sinh của tôm. Tôm được nuôi trong hệ thống biofloc, tổng số tế bào và các enzyme miễn dịch dưới dạng hoạt động hay còn được gọi là phenoloxidase có giá trị cao hơn so với điểm thức đối chứng.
Mặc dù mức độ kích thích phụ thuộc vào nguồn carbon. Sự vận chuyển của các tế bào trong máu trong cơ thể động vật giáp xác và động vật không xương sống khác rất cần thiết cho khả năng miễn dịch. Vì thực hiện chức năng như chức năng thực bào, đóng gói, lưu trữ và giải phóng các enzyme miễn dịch.
Phenoloxidase (PO) là một enzyme của cơ chế bảo vệ động vật giáp xác. Đây cũng là tác nhân dẫn melanin hoá các tế bào lạ để làm bất hoạt chúng và ngăn chặn sự lây lan của chúng khắp cơ thể. Các thành phần như lipopolysacarit (LPS) và b-1, 3-glucans giúp kích thích mạnh enzyme này.
Với tôm được nuôi trong các hệ thống BFT, chúng tiêu thụ biofloc vi sinh vật tại chỗ. Tổng số tế bào máu của tôm và hoạt động PO cũng tăng giúp kích thích tăng hệ miễn dịch cho tôm.
Khi xem xét sự kích thích của PO dựa trên biofloc mức độ biểu hiện của các gen khác nhau điều chỉnh hệ thống chống kích hoạt PO cao hơn đáng kể ở tôm nuôi bằng biofloc so với tôm trong điều trị đối chứng.
Sự vắng mặt của tác động đáng kể của hô hấp (RB) một biện pháp để xác định sự tạo ra các loại oxy phản ứng liên quan đến thực bào bởi các tế bào máu của tôm. Thực bào có thể không xảy ra nhiều lần so với nghiệm thức đối chứng.
Vì vậy hệ thống miễn dịch chưa bị biến đổi dẫn đến khả năng đáp ứng miễn dịch cao hơn. Các tác động biofloc kích thích giải phóng các tế bào máu trong hệ tuần hoàn nhưng kháng khuẩn và diệt vi khuẩn ảnh hưởng không đáng kể.
Xem thêm: Chống Stress Và Tăng Miễn Dịch Cho Ấu Trùng Tôm
Sau xét nghiệm IMNV cho thấy rằng sự suy giảm mức độ hoạt động tổng số tế bào máu, PO và RB đã được nhận thấy sự tích cực trong nghiệm thức đối chứng. Đó cũng là một phản ứng sinh lý bình thường trong trường hợp nhiễm trùng. Phục hồi hệ thống miễn dịch của tôm từ nhiễm virus, nếu không tử vong thì có thể mất rất nhiều thời gian.
Mặc dù tổng số lượng tế bào máu trong tất cả các nghiệm thức thử nghiệm là tương tự nhau sau 6 ngày cảm nhiễm bệnh, mức độ hoạt động của PO và RB cao hơn đối với các nghiệm thức biofloc so với nghiệm thức đối chứng chỉ ea sự phục hồi nhanh hơn hoặc hoạt động liên tục hơn của hệ thống miễn dịch trong những nghiệm thức biofloc.
Sự gia tăng hoạt động hoặc hiệu quả hệ thống miễn dịch trong tôm tăng lên từ các nghiệm thức biofloc cũng được minh hoạ với tỷ lệ sống của tôm lớn hơn đáng kể so với nghiệm thức đối chứng sau khi cảm nhiễm bệnh.
Việc sử dụng BFT trong nuôi tôm tạo ra những tác động tương tự về mức độ tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn, ức chế vi khuẩn gây bệnh và phản ứng miễn dịch so với việc sử dụng chế phẩm sinh học.
Nhiều tác giả đã báo cáo rằng việc bổ sung Bacillus subtilis vào trong nước hoặc trong thức ăn của tôm thẻ chân trắng sẽ giúp tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt hơn. Bên cạnh đó, bổ sung Bacillus subtilis giúp ức chế sự tăng trưởng của vi khuẩn Vibrio trong ruột tôm, tăng hoạt động protease và amylase và điều chỉnh tích cực các gen liên quan đến Hệ thống miễn dịch. Các cơ chế thông qua vi khuẩn có lợi sẽ ảnh hưởng đến tôm đã được xem xét.
Chúng bao gồm điều hoà miễn dịch, loại trừ cạnh tranh, xử lý sinh học, cung cấp các nguồn dinh dưỡng và đóng góp enzyme tiêu hoá. Đặc biệt ngăn chặn sự giao tiếp của tế bào vi khuẩn.
Những tác động mà biofloc đối với tôm cho thấy rằng các tác dụng có lợi của biofloc ít nhất là tương tự với việc bổ sung men vi sinh quan sát thấy.
Tổng kết về mô hình nuôi tôm với hệ thống biofloc
Nghiên cứu đã cung cấp thông tin về bản chất kích thích miễn dịch của biofloc cho tôm và sự đa dạng tuỳ thuộc vào nguồn carbon được sử dụng. Biofloc có tác dụng tích cực đối với phản ứng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng và làm tăng sức đề kháng đối với virus IMNV. Nhìn chung, nghiên cứu đã cho thấy tiềm năng ứng dụng BFT để kiểm soát và quản lý dịch bệnh trong ngành nuôi tôm hiện nay.
(Theo kỹ sư Châu Ngọc Sơn – VinhthinhBiostadt)
InterTrade hỗ trợ tư vấn các giải pháp và sản phẩm chăn nuôi thuỷ sản thông qua số Hotline 0888 6465 567 hoặc liên hệ trực tiếp TẠI ĐÂY.
Có thể bạn quan tâm: Thời Điểm “Vàng” Để Thay Nước Ao Nuôi Tôm
————————————————————–
CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI CUNG ỨNG QUỐC TẾ – INTERTRADE
Địa chỉ: Tòa nhà MIOS 121 Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, TP. HCM
Hotline: 088 6465 567
Email: info@intertrade.vn
Website: www.intertrade.vn
Best Quality – Best Prices
I like this website it’s a master piece!